Đăng nhập

Cổng TTĐT Xã Yết Kiêu - Huyện Gia Lộc

23/4/2023  |  English  |  中文

Lịch sử, văn hóa - Xã Yết Kiêu



          Gia Lộc là huyện cửa ngõ phía nam của tỉnh Hải Dương, hiện có 234      di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 18 di tích được xếp hạng cấp quốc gia,  23 di tích xếp hạng cấp tỉnh. Một trong những di tích ấy không thể không kể đến là đền Quát - nơi thờ danh tướng Yết Kiêu, được xây dựng vào cuối thời Trần nhằm ghi nhớ công lao của ông.

        Đền Quát thờ danh tướng Yết Kiêu - người có công lao to lớn trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông thế kỷ 13 thời nhà Trần, được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1989 thuộc xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.

          Danh tướng Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế, sinh ngày 13 tháng Hai năm Nhâm Dần (1242) quê quán ấp Hạ Bì, huyện Gia Phúc, phủ Hạ Hồng (thuộc xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc ngày nay). Từ nhỏ, Yết Kiêu đã sớm có tài bơi lội, tương truyền ông có khả năng đi lại dưới nước như đi trên mặt đất. Khi trưởng thành, ông trở thành gia tướng của Trần Hưng Đạo, từng tham gia nhiều trận thủy chiến, đục thủng thuyền giặc.

Đền Quát có tên tự là “Yết Kiêu thần từ", toạ lạc ở đầu làng, nằm trên gò đất cao, bằng phẳng và rộng rãi, đồng thời cũng là nơi “chôn rau cắt rốn" của danh tướng Yết Kiêu - người có công lao to lớn trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông - thế kỷ XIII thời Trần.         Kiến trúc của đền là kết cấu chữ “Đinh" (J) gồm tiền tế, trung từ và hậu cung.

        Ngôi đền có hồ nước bao bọc ba mặt, phía trước cửa là sông Đĩnh Đào (một đoạn của sông Đò Đáy) chảy tới đây uốn khúc tạo thành hình cánh cung, ôm gọn khu ruộng triều phì nhiêu nối liền với cánh đồng rộng mênh mông của xã. Tương truyền, đền Quát được xây dựng sau khi Yết Kiêu qua đời, nhưng phải đến thế kỷ XVII - XVIII mới được tôn tạo khang trang và đã tu sửa nhiều lần vào thời Nguyễn. Khuôn viên của đền khá rộng.

        Phía tây đền giáp sông Đĩnh Đào, phía bắc là ao hồ, phía đông và nam giáp khu dân cư, khuôn viên đền bao gồm đền và bãi bơi. Đền có kiến trúc hình chữ Đinh, mặt quay hướng tây, gồm 5 gian tiền tế, 5 gian trung từ và 3 gian hậu cung, hai bên có 2 nhà giải vũ, giữa đền và bãi bơi có một hồ bán nguyệt nhỏ rộng 300m2.

Tiền tế: gồm 5 gian (3 gian, 2 trái, 112,5m2, nối với trung từ bằng sân lọng rộng 3m. Nhà tiền tế có 5 luồng cửa đi kiểu bức bàn, 2 luồng cửa kiểu song lùi, phía sau không xây.

Tiền tế, trung từ (gồm 3 gian, 2 trái, 223 m2) và hậu cung (293 m2) có mái chồng diêm, có ba luồng cửa đi kiểu bức bàn, hai luồng cửa kiểu song lùa; giữa trung từ và hậu cung bố trí 3 luồng cửa đi. Mái lợp ngói ta phục chế, dưới lót ngói chiếu có hoa văn kiểu chữ thọ; dui, gộp, hoành, tàu mái, giéo đao, diềm tàu, lá mái làm bằng gỗ lim [9, tr.9].

        Phần trung từ và tiền tế đặt nhang án, treo đại tự, cuốn thư, câu đối, bày mã đao, chấp kích, bát biểu, có 01 đôi hạc bằng gỗ, có đôi trâu trắng, mõ cá cổ bằng gỗ gắn với sự tích và Yết Kiêu đánh giặc ngoại xâm. Phần hậu cung đặt khám thờ, tượng của danh tướng Yết Kiêu, công chúa Nguyên triều và tượng chín nàng hầu bằng gỗ.

Hai nhà giải vũ: có 3 gian 2 trái, diện tích xây dựng là 112,5m2/nhà. Mái lợp ngói ta, phục chế, dưới lót ngói chiếu có hoa văn kiểu chữ thọ, dui, gộp, hoành, tàu mái, giéo đao, diềm tàu, lá mái làm bằng gỗ lim.

Nghi môn: cổng giữa rộng 4,29 m, hai cổng nách rộng 1,94 m, cổng giữa có 8 mái kiểu chồng diêm, cổng nách 4 mái.

Cầu cá: dài 12m, rộng 4m, hình cong, đỉnh cao 0.9m, mặt cầu lát đá hộp, lan can bằng đá.

Bãi bơi rộng tới 2000 m2 chạy dài theo bờ sông. Tại đây có 2 voi đá (65 x 116 cm), 2 ngựa đá (160 x 180 cm), một tấm bia Lịch triều khoa cử khắc vào đầu thời Nguyễn. Đây là nơi tổ chức lễ hội bơi chải hàng năm

Hiện tại, ở đền Quát vẫn còn lưu giữ sắc phong cổ, đó là: thời Cảnh Hưng năm thứ tư ngày 16/5/1783; thời Cảnh Thịnh thứ tư ngày 25/5/1795; thời Tự Đức thứ sáu ngày 10/11/1853; thời Khải Định thứ chín ngày 25/7/1924. Trung từ và tiền tế dùng để tế lễ, cầu cúng, ngoài ra còn phục vụ cho việc họp hành, làm việc hàng ngày của các bậc chức sắc trong làng trước kia. Khu vực sân đền phục vụ cho hoạt động lễ hội, diễn chèo, tuồng hoặc những sự kiện lớn của làng. Không gian trước đền là nơi để người dân gặp gỡ, thăm hỏi và trao đổi thông tin đồng thời cũng là nơi diễn ra các trò chơi dân gian hấp dẫn trong dịp lễ hội.

        Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đền là nơi hội họp của đội du kích, tổ chức giật mìn đánh Pháp ở đầu làng năm 1948 nên sau đó bị giặc Pháp trả thù về đốt đền, chỉ còn lại ba gian hậu cung dần bị xuống cấp. Từ năm 1973, nhân dân trong xã, thôn đã đóng góp công sức, tiền bạc xây dựng lại năm gian tiền tế, ba gian trung từ, ba gian hậu cung. Năm 1996, được sự giúp đỡ của Sở Văn hoá thông tin và Bảo tàng tỉnh Hải Dương, cùng sự phát tâm công đức của khách thập phương và nhân dân trong xã, đã nâng cấp 5 gian tiền tế.

        Năm 2004, được sự đồng ý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, UBND tỉnh Hải Dương, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Huyện uỷ, UBND huyện Gia Lộc đã đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử văn hoá đền Quát, để tưởng nhớ đến "Đệ nhất đô soái thuỷ quân" có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông.

        Người dân làng Hạ Bì (làng Quát) vẫn còn lưu truyền nhiều câu chuyện huyền bí về Yết Kiêu - một trong những danh tướng của Trần Hưng Đạo, người có nhiều công lao trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông giữa và cuối thế kỷ XIII.

Yết Kiêu (1242-1303) tên thật là Phạm Hữu Thế, cha làm nghề đánh bắt cá, mất khi ông 8 tuổi. Nhà nghèo nên từ nhỏ Phạm Hữu Thế phải lăn lộn sông nước kiếm sống. Năm 15 tuổi, vào buổi sáng tinh mơ, Phạm Hữu Thế ra sông gánh nước trong cảnh sương mù mịt phủ khắp mặt sông, ông thấy hai con trâu trắng húc nhau liền dùng đòn gánh đánh đuổi, nhưng hai con trâu biến mất, Hữu Thế thấy hai chiếc lông trâu dính vào đầu đòn gánh, khi đặt chúng xuống nước, ông thấy nước rẽ ra làm đôi, cho là lông trâu thần, ông liền nuốt vào bụng. Từ đó Phạm Hữu Thế có thân thể cường tráng, bơi lội tài giỏi, đi trong nước như trên đất bằng... Theo những giai thoại còn lưu truyền đến ngày nay, Yết Kiêu có thể lặn liên tục 7 ngày 7 đêm, phần nào cho thấy người dân khâm phục tài năng của vị tướng tài ba này [19, tr.5]. Sự lạ lùng ấy ứng với bức hoành phi trong đền: “Thiên cổ dị nhân" (từ trước tới nay mới có người lạ thường như vậy)...

Năm 1258, khi quân Nguyên ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta lần thứ hai, chàng thanh niên Phạm Hữu Thế lập tức lên đường tòng quân, được nhà Trần tuyển vào thủy quân. Tương truyền, lúc bấy giờ, nhà Trần tổ chức hội thi tuyển chọn người tài ở Vạn Kiếp. Trần Ích Tắc (con vua Trần Thái Tông) có gia nô tên Đô Châu là đô vật nổi danh toàn vùng, không có đối thủ trong cuộc thi này nhưng khi giáp mặt Phạm Hữu Thế, Đô Châu đã phải “tâm phục, khẩu phục".

Nhiệm vụ của Yết Kiêu là tìm cách đục thuyền giặc trong đêm. Khi màn đêm buông xuống, Yết Kiêu tìm cách vượt qua hàng lính bảo vệ rồi nhẹ nhàng đục thuyền giặc. Mỗi thuyền phải đục khoảng 20 lỗ, đục được lỗ nào lại phải dùng giẻ đã cuộn tròn và buộc dây đút nút lại. Những cuộn giẻ ấy đều được buộc lại với nhau bằng một sợi dây. Một đêm, Yết Kiêu đục được khoảng 30 thuyền giặc. Đến gần sáng khi đã đục đủ số thuyền đã định, Yết Kiêu liền kéo dây để những nút giẻ trôi ra khỏi thuyền, khiến hàng chục thuyền giặc bị đắm. Xong việc, ông nhẹ nhàng bơi về an toàn.

Có lần, Yết Kiêu bị vây bắt ở bãi sông. Ông núp mình dưới những bụi cây mọc lúp xúp và tránh sự lùng sục của giặc. Chúng dùng kiếm đâm vào bụi cây, trúng đùi Yết Kiêu. Yết Kiêu cắn răng chịu đựng, khi kẻ thù rút kiếm ra, ông cố gắng chịu đau và dùng tay lau vết máu dính trên lưỡi kiếm để kẻ thù không phát hiện thấy mình...

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần hai và lần ba, Phạm Hữu Thế với tài bơi lội “Nhập thuỷ như phúc bình địa hỹ" (đi dưới nước ung dung, tự tại như trên đất bằng) đã lập nhiều công lao lớn, được vua ban danh hiệu Trần triều đệ nhất đô soái thuỷ quân. Ông đã được nhân dân và vua quan nhà Trần gọi là Yết Kiêu (tên một loài cá lớn ngày xưa).

Đất nước khải hoàn, vua Trần tổ chức lễ mừng công ban lộc, ban thưởng cho các vương tướng có công giết giặc. Yết Kiêu được vua phong “Đệ nhất đô soái thủy quân tước hầu", được thưởng nhiều bổng lộc nhưng Yết Kiêu không nhận. Ông xin vua cho dân làng Hạ Bì dù đi bất cứ nơi đâu làm nghề chài lưới trên sông được 3 thước đất hai bên bờ sông để phơi chài lưới không phải đóng thuế. Vua khen ông biết lo cho dân và phê chuẩn.

          Với những đóng góp to lớn đó, Yết Kiêu trở thành một trong những danh tướng lẫy lừng bậc nhất xuyên suốt lịch sử dân tộc, trở thành biểu tượng của thủy quân nước ta và là niềm tự hào lớn lao của quê hương, nơi ông được suy tôn là thành hoàng làng. Hiện nay, tên của ông đã được đặt cho nhiều ngôi trường, tên đường, tên phố và tên các xã, phường trên cả nước. Tại làng chài Nam Hải, xã Kênh Giang, thị xã Chí Linh tỉnh Hải Dương cũng có một ngôi đền do nhân dân lập nên để thờ ông. Nhân dân coi Yết Kiêu là người khai sơn lập thổ, là thành hoàng của cả xã. Đặc biệt ở đây còn lưu giữ được một vật vô giá là chiếc mũ bằng đồng của Yết Kiêu khi đội ra trận.

 Một số giá trị tiêu biểu của đền Quát

Đền Quát - một di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu, không chỉ có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh đối với người dân xã Yết Kiêu, mà còn phản ánh truyền thống đánh giặc của người Việt cũng như lịch sử của cộng đồng dân cư Hạ Bì qua nhiều năm tháng sinh sống bằng nghề nông và đánh cá. Đến nay, đền Quát vẫn có sức hút lạ kỳ đối với người dân quan biểu tượng anh hùng Yêt Kiêu, đang được chính quyền và nhân dân địa phương bảo tồn, gìn giữ. Nói đến đền Quát là nói đến một quần thể “cây đa, giếng nước, sân đình". Nếu nhìn từ xa, ngôi đền vượt lên trên những mái nhà, vườn cây ăn quả của làng Hạ Bì, đến gần hơn thấy khuôn viên rộng của ngôi đền với cây đa, giếng nước, hình ảnh thân đa vươn cao- giếng nước in sâu- sân đền trải rộng đã đem lại cho người đến đây ấn tượng thân quen, gần gũi nhưng lại linh thiêng của chốn thờ tự như với nhiều làng quê cổ ở châu thổ Bắc Bộ. Các yếu tố cảnh quan, kiến trúc nơi đây gợi cho du khách liên tưởng tới mối quan hệ “thiên thời, địa lợi, nhân hòa" cũng như sự hài hòa của nó với cảnh sắc xóm làng. Chính vì vậy, mọi người khi tới đây đều cảm nhận được sự ấm áp, thấm đượm tình nghĩa xóm làng. Từ trước đến nay, đền Quát vẫn là trung tâm văn hóa - tín ngưỡng của người dân và luôn có vai trò rất quan trọng đối với đời sống cộng đồng.

Lễ hội đền Quát được tổ chức vào mùa Xuân từ 14 - 16 tháng Giêng và mùa Thu từ 14 - 16 tháng Tám âm lịch. Lễ hội đền Quát mang đậm sắc thái văn hóa và truyền thống của dân tộc. Cùng với những giá trị lịch sử văn hóa đặc biệt và lưu truyền của nhân dân về sự linh thiêng của ngôi đền, lễ hội đền Quát được nâng tầm quy mô lễ hội cả một vùng, đang trở thành điểm đến du lịch tâm linh hấp dẫn của du khách thập phương.

 

​